TÓM
TẮT
Trong
các cách để tạo ra năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp khi bước vào TPP
(Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement - Hiệp định hợp tác
Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương), con người tài năng chính là nguồn nhân lực cạnh
tranh hữu hiệu nhất. Nó không chỉ mở ra cơ hội làm ăn cho doanh nghiệp mà còn
là cơ hội việc làm và học tập rất lớn cho người lao động nói chung và lực lượng
đông đảo sinh viên Việt Nam nói riêng, lợi thế thông qua con người tài năng
được xem là yếu tố quan trọng nhất.
ABSTRACT
When
Vietnam joins in TPP (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement),
talent people are main power to compete with other countries in trade.
Companies will grow rapidly their business if they have many talent people.
Beside of, there are many students and young men to take the opportunity to
improve their studying when Vietnam will be a member TPP.
Từ khóa: TPP, con người tài năng, gia nhập TPP, hiệp định hợp tác kinh tế chiến
lược Xuyên Thái Bình Dương. Điều kiện tham gia TPP.
1.
KHÁI LƯỢC TPP
“Việt Nam được hưởng lợi nhiều trong
số các nước đang đàm phán TPP, với tăng trưởng GDP và xuất khẩu có tiềm năng
lớn hơn bất kỳ nước đối tác nào tham gia TPP. Nếu Việt Nam tận dụng được lợi
thế đầy đủ, TPP sẽ cho phép khu vực tư nhân tiếp cận nhiều hơn các thị trường
trọng điểm, kích thích cạnh tranh, thu hút đầu tư nước ngoài, giúp xây dựng cơ
sở hạ tầng cho chuỗi cung ứng quan trọng, mang lại lợi ích đáng kể cho doanh
nghiệp và người dân Việt Nam. TPP cũng sẽ hỗ trợ mục tiêu chiến lược của Việt
Nam nhằm công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa. Việc Việt Nam tham gia
TPP có ý nghĩa quan trọng đối với cộng đồng doanh nghiệp Mỹ vì nó sẽ thúc đẩy
lòng tin của giới đầu tư và tạo thêm nhiều cơ hội làm ăn, kinh doanh tại đây”. Phát
biểu của Ông Adam Sitkoff - CT Phòng Thương mại Mỹ (AmCham) tại Hà Nội.
Bà
Phạm Chi Lan, kinh tế gia nổi tiếng của Việt Nam đã nêu nhận xét về lợi ích khi
gia nhập TPP: “Cơ hội để Việt Nam cải thiện môi trường kinh doanh, cụ thể là tư
nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Môi trường kinh doanh này tạo ra phát triển
kinh tế, xã hội và chính trị, đưa đất nước đến tự do”.
Tổng
thống Mỹ Obama đã khẳng định với người đồng cấp Mexico Enrique Peía Nieto và
Thủ tướng Canada Stephen Harper rằng, Mỹ cam kết thông qua TPP trong năm 2014.
Thông tin được loan báo bởi một quan chức Nhà Trắng vào trung tuần tháng
2/2014. TPP cũng là chủ đề chính trong chuyến công du của ông Obama thăm bốn
nước Châu Á vào tháng 4/2014.
TPP
đang được bàn thảo rốt ráo trên phạm rộng rãi của thế giới bởi lẽ TPP vừa là
thách thức nhưng cũng vừa là cơ hội cho các nước. Tại Việt Nam, TPP mở ra nhiều
cơ hội rất lớn cho cộng đồng doanh nhân Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam
nói chung. Cánh cửa TPP mở ra là cơ hội cho những người trẻ vươn mình lớn dậy
bước ra cạnh tranh và khẳng định trước cuộc chơi của thế giới.
1.1
TPP là gì?
TPP
là chữ viết tắt của Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement
(Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương), là một Hiệp định
thương mại tự do nhiều bên, được ký kết với mục tiêu thiết lập một mặt bằng
thương mại tự do chung cho các nước khu vực châu Á Thái Bình Dương. Hiệp
định thương mại tự do có tiêu chuẩn cao với phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm
hầu hết các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như thương mại hàng hóa, thương
mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường...
Hiệp
định này được ký kết ngày 03.60.2005, có hiệu lực từ 28.05.2006 giữa 4 nước Singapore,
Chile, New Zealand, Brunei. Tháng 09.2008, Hoa Kỳ bày tỏ đàm phán để tham gia
TPP. Tháng 11.2008, các nước khác là Australia, Peru, Việt Nam cũng thể hiện ý
định gia nhập. Tháng 10.2010, Malaysia chính thức thông báo muốn đàm phán tham
gia TPP.
Năm
2010, có hai vòng đàm phán TPP cấp cao đã được tiến hành với sự tham gia của 4
nước thành viên cũ và 4 nước mới. Ngoài ra còn có một cuộc đàm phán giữa kỳ vào
tháng 08.2010 tại Peru và một đàm phán vừa tiến hành tại Brunei (từ ngày 04 –
08.10.2010). Ngày 13.11.2010, Việt Nam tuyên bố tham gia vào TPP với tư cách
thành viên đầy đủ. TPP được xem là thỏa thuận chiếm 40% GDP toàn cầu và chiếm
khoảng 30% mậu dịch quốc tế.
Việt
Nam tin rằng TPP sẽ tạo điều kiện tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu tại các thị
trường mới, cũng như duy trì các thị trường truyền thống.
Trong
những năm qua, 50% đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là từ các nước thành viên
TPP.
TPP
dự kiến sẽ giúp nhiều ngành tại Việt Nam như may mặc, giày da, đồ gỗ…và khiến
các sản phẩm của Việt Nam cạnh tranh hơn các sản phẩm của các nước khác.
1.2
TPP – Điều kiện tham gia
Khi
muốn gia nhập WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới), quốc gia nào có đủ điều kiện
thì được kết nạp. Việt Nam phải mất 12 năm mới được vào, Trung Quốc đến 15 năm
và Nga phải chờ đến 18 năm để hoàn tất các điều kiện căn bản cho một nền kinh
tế thị trường tự do.
Ở
TPP, việc tham gia thông qua các cuộc đàm phán giữa các bên, tức là các nước
phải thương lượng với nhau.
1.3
TPP - Các thành viên
TPP
nếu được ký kết sẽ giúp đẩy mạnh sự phát triển của các nền kinh tế,
xóa bỏ rào cản về thương mại và đầu tư, tăng xuất khẩu và tạo thêm
các cơ hội việc làm. Hiện có 12 nước tham gia đàm phán TPP, gồm Australia,
Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru,
Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam. Đàm phán TPP hiện đã kết thúc phán phiên thứ 20
và đang phấn đấu hoàn thành trong năm 2014.
1.4
TPP - Việt Nam và những ngành được lợi
Khi
bước chân vào TPP, sẽ là cơ hội lớn để Việt Nam phát triển quan hệ thương mại,
đầu tư và hợp tác giáo dục giữa Việt Nam và các thành viên có nền kinh tế lớn
nhất thế giới. Thu nhận khoa học kỹ thuật tiến bộ, nhất như Hoa Kỳ, Úc,
Singapore và New Zealand khi thật sự mở cửa cho các thành viên đó đầu tư vào
Việt Nam.
Lợi
ích mà Việt Nam sẽ có là được tiếp cận nhiều hơn với thị trường mà thuế quan
rất thấp dành cho các thành viên của TPP. Có khả năng thu hút đầu tư nước ngoài
nhiều hơn trong khi Việt Nam cần nhiều vốn và kỹ thuật cao. Cơ hội để các mặt
hàng chủ yếu của Việt Nam vào thị trường rộng lớn với mức thuế quan rất thấp,
đưa đến việc miễn thuế. Việt Nam nếu hội đủ tiêu chuẩn của một nền kinh tế thị
trường tự do, thì tất cả đi đến miễn thuế. (Theo Luật sư Eric C. Emerson - Công
ty luật Steptoe&Johnson).
1.4.1
Ngành dệt may- da giày
Bước
vào TPP, Việt Nam có thể gia tăng xuất khẩu dệt may, giày dép vào các thị
trường lớn, đặc biệt là Hoa Kỳ (hiện đóng góp 20% trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam) với lợi thế cạnh tranh hơn các nước khác. Kim ngạch xuất
khẩu mặt hàng chủ lực của Việt Nam là dệt may đạt gần 18 tỷ USD năm 2013, duy
trì tốc độ tăng trưởng 18%; trong đó khoảng 44% kim ngạch xuất khẩu dệt may của
Việt Nam vào Mỹ, 12% vào Nhật và 4% vào các nước TPP còn lại. Như vậy, khoảng
60% kim ngạch xuất khẩu của dệt may Việt Nam được xuất khẩu vào các nước trong
khối TPP. Với mặt hàng da giày, Việt Nam xuất khẩu gần 8,4 tỷ USD năm 2013,
trong đó xuất khẩu sang Mỹ chiếm 28%. Nếu hiệp định TPP được ký kết, hàng dệt
may và da giày của Việt Nam sẽ được hưởng thuế suất 0% thay vì 7% và 12% như
hiện nay.
1.4.2
Ngành lúa gạo
Mặt
hàng lúa gạo có cơ hội tăng trưởng lớn vì các đối thủ chính là Thái Lan, Ấn Độ
chưa tham gia đàm phán TPP. Tham gia TPP với các thành viên chiếm đến 70% tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, có thể giúp GDP tăng thêm khoảng 26,2 tỷ USD.
1.4.3
Ngành hàng đồ gỗ và nội thất
Là
một trong những nhóm hàng xuất khẩu chủ lực với kim ngạch năm 2013 đạt 5,496 tỷ
USD, chiếm khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Việc tham
gia TPP và được hưởng ưu đãi thuế sẽ tạo nhiều thuận lợi hơn cho mặt hàng xuất
khẩu này.
1.4.4 Ngành hàng thủy sản, nông sản
Là
nhóm hàng xuất khẩu Việt Nam có lợi thế so sánh cao. Kim ngạch xuất khẩu sang
Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng lớn thứ 4 (sau dệt may, đồ gỗ và da giày), trong đó thủy
sản chiếm 5,5% và nông sản chiếm 2,7% tổng kim ngạch xuất khẩu.
1.5
TPP – Việt Nam và những ngành bất lợi
1.5.1
Ngành công nghiệp ôtô
Các
doanh nghiệp ngành này sẽ phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp
nước ngoài khi Việt Nam mở cửa thị trường hoàn toàn cho Hoa Kỳ và Nhật Bản theo
TPP. Hơn nữa, công nghiệp phụ trợ đối với ngành công nghiệp ô tô hiện nay ở
Việt Nam rất kém, quy mô thị trường nhỏ là những điểm bất lợi trong thu hút đầu
tư vào ngành này.
1.5.2
Các sản phẩm nông nghiệp và thủy hải sản
Các
mặt hàng chăn nuôi như thịt gà, lợn, bò... vốn là ngành lợi thế của Hoa Kỳ hoặc
mặt hàng đường là thế mạnh của Australia. Việc giảm thuế quan khiến luồng hàng
nhập khẩu từ các nước TPP vào Việt Nam gia tăng, do giá cả cạnh tranh hơn, hệ
quả tất yếu là thị phần hàng hóa liên quan tại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng lớn.
Đối với hàng thủy sản, vốn thuế suất không còn là rào cản chính, song các biện
pháp kiểm dịch SPS có thể lại trở nên ngặt nghèo hơn.
1.5.3
Ngành dược phẩm
Vấn
đề sở hữu trí tuệ đối với ngành dược phẩm đòi hỏi yêu cầu rất cao, đó là nâng
cao mức độ bảo hộ sáng chế và vấn đề dược phẩm, nâng cao mức độ bảo hộ dữ liệu
thử nghiệm cho dược phẩm và nông hóa phẩm, sẽ là cản trở lớn đối với các doanh
nghiệp dược phẩm trong nước khi cạnh tranh với các hãng dược phẩm nước ngoài
trong quá trình mở rộng thị trường, cũng như khả năng tiếp cận giá thuốc rẻ của
người tiêu dùng Việt. Đây luôn là vấn đề khó khăn đối với các nước đang phát
triển trong đàm phán thương mại quốc tế.
1.5.4
Ngành dịch vụ tài chính - ngân hàng
Tham
gia TPP sẽ là thách thức rất lớn đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng
của Việt Nam. Các đối tác đàm phán TPP đều là những nước có thị trường tài
chính, ngân hàng rất phát triển (Hoa Kỳ, Australia, Singapore) hoặc đã mở cửa
cho sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài (New Zealand), hoặc lợi ích sẽ không
bị ảnh hưởng quá nhiều bởi việc mở cửa thị trường tài chính ngân hàng (Brunei).
Do vậy, trong khuôn khổ đàm phán TPP, các nước phát triển, đặc biệt là Hoa Kỳ
và Australia sẽ có nhiều thuận lợi khi đưa ra những yêu cầu cao về mở cửa thị
trường, vô hình chung gây sức ép đối với các nước đang phát triển trong đó có
Việt Nam.
Những
ngành trên đây đều là ngành có đông đại diện trong BXH Fast500 năm 2013 (500
doanh nghiệp tăng trưởng nhanh nhất Việt Nam), với tốc độ tăng trưởng doanh thu
kép - CAGR trung bình ngành trong giai đoạn từ 2009 - 2012 đạt mức cao, đều
trên mức trung bình toàn bảng xếp hạng là 44,7% cho thấy tiềm năng phát triển
của những ngành này trong tương lai cũng được đánh giá khá tốt. Vì vậy, tận
dụng tốt cơ hội, tiên lượng và hạn chế những rủi ro đi kèm khi Việt Nam chính
thức trở thành thành viên TPP sẽ là bước đệm đưa nền kinh tế Việt Nam bắt kịp
với nhịp tăng trưởng của toàn cầu.
2.
TPP - Cơ hội chuyển mình của sinh viên Việt Nam
Hàng
năm, lượng sinh viên tốt nghiệp của các trường đại học ở Việt Nam gia nhập vào
thị trường lao động trong nước và quốc tế ngày càng nhiều. Theo số liệu mới
nhất của Bộ Giáo dục & Đào tạo, tính đến thời điểm tháng 6/2012, hàng năm
có khoảng gần 319.000 sinh viên đại học, cao đẳng và hơn 15.000 học viên cao
học, nghiên cứu sinh tốt nghiệp ra trường. Điều này làm tính cạnh tranh trên cả
hai thị trường cũng gia tăng. Những sinh viên nào nhận thức đúng về sự cạnh
tranh việc làm sau khi tốt nghiệp và có sự chuẩn bị trước cho mình khả năng
cạnh tranh sẽ nỗ lực học tập, thực học, tự khẳng định được giá trị bản thân
ngay từ khi còn ngồi trên giảng đường và họ sẽ thành công.
Trong
thực tế, khả năng cạnh tranh cao đã tạo ra cơ hội cho một số sinh viên trở
thành những “công dân toàn cầu”, sống và làm việc ở nhiều quốc gia khác nhau,
tìm được chỗ đứng của mình trên thị trường lao động quốc tế vốn dĩ rất khắt khe
trong các tiêu chí tuyển dụng và làm việc. Tại thị trường lao động trong nước,
khá nhiều sinh viên được tuyển dụng vào những cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có
môi trường và không gian làm việc tốt, cơ hội phát triển nghề nghiệp rộng mở
mặc dù mức lương có thể chưa được cao như mong muốn.
Trong
các cách để tạo ra năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp khi bước vào TPP, con
người tài năng chính là
nguồn nhân lực cạnh tranh hữu hiệu nhất. Nó mở ra cơ hội học tập rất lớn cho
người lao động nói chung và lực lượng đông đảo sinh viên Việt Nam nói riêng,
lợi thế thông qua con người tài năng được xem là yếu tố quan trọng nhất. Bởi
lẽ, con người được xem là nguồn lực căn bản và có tính quyết định của mọi thời
đại. Nguồn lực từ con người là yếu tố bền vững và khó thay đổi trong mọi tổ chức,
doanh nghiệp. Năng lực thông qua con người tài năng ở các doanh nghiệp được
hiểu như là khả năng của đội ngũ nhân viên trong doanh nghiệp. Nguồn nhân lực
đóng góp cho sự thành công của doanh nghiệp trên các khía cạnh chất lượng cao,
dịch vụ tuyệt hảo, khả năng đổi mới; kỹ năng trong công việc cụ thể; và năng
suất của đội ngũ nhân viên. Đây là những yếu tố then chốt mang lại sự thành
công của các tổ chức, doanh nghiệp trước thềm TPP.
2.2
Chiến lược con người tài năng - nguồn nhân lực cần được chuẩn bị cho TPP
Đừng
để bị động trong cuộc chiến cạnh tranh sắp tới, cũng đừng để vuột mất cơ hội
tiềm tàng khi tham gia sân chơi TPP. Năng lực cạnh tranh mạnh mẽ nhất thông qua
yếu tố con người tài năng thường mang tính bền vững vì nó không thể xác lập
trong một thời gian ngắn. Con người tài năng phải được xem là nguồn nhân lực
cốt lõi của đất nước sẽ mang sự khác biệt và mang lại lợi thế cạnh tranh cho
từng công ty. Mặt khác các hoạt động nguồn nhân lực cũng cần có sự kết hợp nhau
để hợp lực tạo ra khả năng bảo đảm sự thành đạt mục tiêu của đất nước.
Trong
bối cảnh đó, tìm kiếm, xây dựng những lợi thế cạnh tranh mới để thu hút vốn FDI
và bình đẳng trước cuộc chơi là yêu cầu cấp bách hiện nay. Lợi thế cạnh tranh
đó phải là con người tài năng - nguồn nhân lực chất lượng cao, đó cũng chính là
hạ tầng cơ sở hiện đại, là hệ thống pháp luật đồng bộ.
Tuy
nhiên, điều băn khoăn là không thể nhanh chóng tạo dựng được những lợi thế
cạnh tranh mới này, nó đòi hỏi cả quá trình lâu dài, mất nhiều thời gian, công
sức và tiền bạc. Nhưng nếu không thực hiện từ bây giờ, không nỗ lực quyết tâm
để tạo thế đứng trong cuộc chơi thì chắc chắn Việt Nam sẽ bị mất điểm trong con
mắt của những nhà đầu tư nước ngoài và những cơ hội vào TPP của Việt Nam sẽ vụt
mất. Khi môi trường mang tính cạnh tranh, hấp dẫn thì con người tài năng –
nguồn nhân lực chất lượng cao cần thiết hơn bao giờ hết.
3.
KẾT LUẬN
Lợi
ích từ TPP được đề cập rất nhiều từ các báo cáo khắp trong ngoài nước. Nhưng
cho dù lợi thế có thiết thực đến đâu đi nữa thì Việt Nam vẫn rất cần đội
ngũ con người tài năng đủ tầm, đủ sức để thừa hành và đảm đang các trọng trách
như mong đợi.
Các
đại học Việt Nam có nhiều sức mạnh tiềm tàng vì chứa đựng bên trong lực lượng
lao động trẻ, hùng mạnh và dồi dào. Nếu như các trường đều ý thức, cùng bắt tay
hành động mạnh mẽ đối phó với các nguy cơ ngắn hạn và theo đuổi chương trình
tập trung vào chất lượng và trí tuệ dài hạn, đào tạo tốt lao động trẻ Việt Nam
trở thành những con người tài năng, chắc chắn rằng Việt Nam có thể bước vào TPP
với làn sóng tăng trưởng và thịnh vượng lâu bền.
4.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đoàn
Gia Dũng (2012), Bàn về sự tích hợp chiến lược nguồn nhân lực với chiến
lược công ty (Integrating human resource strategy into the
corporate strategy), Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường Đại
học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng.
[2].
Hải Thu (2013), Tạo lợi thế cạnh tranh mới để thu hút FDI, báo
Thanh Niên Chủ nhật.
[3]. PGS.TSKH.
Bùi LoanThùy (2012), Nâng cao sức cạnh tranh cho sinh viên Việt Nam trên thị
trường lao động trong nước và quốc tế, tạp chí PHÁT TRIỂN &
HỘI NHẬP.
[4]. Huỳnh
Nga (2009), Lợi thế khi chuẩn bị tốt nguồn nhân lực, báo Người Lao Động.
[5]. GS.
Lương Xuân Quỳ (2014), Việt Nam và Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình
Dương (TPP), Tạp chí Phát triển và hội nhập.
[6]. Bảo
Trân, (2012), 10 bất ngờ của Việt Nam, Tạp chí Foregin
Policy.
[7]. Hoàng
Phi (2014), HSBC đề cao lợi ích của Việt Nam trong TPP, Thời
báo Kinh tế Sài Gòn online.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét