TÓM TẮT
Việt Nam luôn phải cạnh tranh với
các điểm đến hàng đầu của các nước trong khối ASEAN trong việc thu hút khách du
lịch. Các điểm đến du lịch ở Malaysia, Thái Lan, Singapore được đầu tư nhiều
kinh phí, người lao động có tay nghề lao động với trình độ chuyên môn cao, các
doanh nghiệp luôn đổi mới về sản phẩm và nâng cao thương hiệu du lịch. Thách
thức lớn nhất là bối cảnh các nước Asean sẽ gia nhập cộng đồng chung ASEAN vào
năm 2015, Việt Nam sẽ đối mặt với nhiều thách thức do sự không đồng đều về chất
lượng nguồn nhân lực, chất lượng dịch vụ, năng lực kinh doanh. Nếu Việt Nam không
chuẩn bị tốt, khai thác tốt thì các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ mất thị
trường khách du lịch trong khu vực mà thị trường khách nội địa cũng khó giữ
vững.
Toàn
khối ASEAN năm 2015 sẽ tiến tới một cộng đồng “thống nhất trong đa dạng”, tiếp
tục là tổ chức hợp tác khu vực mở và có vai trò quan trọng ở Châu Á-Thái Bình
Dương. Do vậy, liên kết ASEAN sâu rộng hơn trong ba lĩnh vực chính trị - an
ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội là những tính toán chiến lược quan trọng.
Việc xem xét lợi ích của quốc gia nói chung và lợi ích ngành du lịch nói riêng
phải được đặt trong mối quan hệ tổng thể, xuyên suốt, trong đó không thể xem
nhẹ việc giáo dục đào tạo tay nghề chuyên nghiệp của con người làm du lịch Việt
Nam.
Key word: Cộng đồng ASEAN, AEC, ba
trụ cột, giáo dục đào tạo nhân lực du lịch, thách thức, cơ hội
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có những bước
chuyển mạnh mẽ nhằm tăng cường liên kết khu vực, tận dụng những cơ hội mới đang
mở ra cũng như ứng phó hiệu quả hơn với các thách thức mới ngay từ những ngày
đầu thế kỷ 21. Việt Nam đã đóng vai trò tích cực cùng các nước ASEAN xây dựng
và thông qua Tuyên bố hòa hợp ASEAN II tại Bali, Indonesia (10/2003), đề ra
những định hướng chiến lược cho sự phát triển của ASEAN, hướng tới xây dựng một
Cộng đồng ASEAN năng động, tự cường và gắn kết vào năm 2015, với ba trụ cột
chính là Cộng đồng an ninh ASEAN (ASC), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng
đồng văn hóa - xã hội ASEAN (ASCC) - ASCC là sáng kiến của Việt Nam; các Kế hoạch
hành động nhằm triển khai thực hiện Tuyên bố hòa hợp ASEAN II (11/2004 tại
Vientiane), bao gồm: Kế hoạch hành động của ASC, Kế hoạch hành động của ASCC,
Hiệp định khung ASEAN về 11 lĩnh vực ưu tiên hội nhập và Chương trình Hành động
Vientiane (VAP). Trong bối cảnh đó, ngành du lịch Việt Nam và việc giáo dục đào
tạo nhân lực du lịch sẽ phải làm gì để đón đầu hội nhập và cạnh tranh trong
khối ASEAN nói riêng và cạnh tranh quốc tế nói chung.
2.
NỘI DUNG
2.1 Tìm hiểu cộng đồng ASEAN năm
2015
2.1.1
Giới thiệu Cộng đồng ASEAN năm 2015
Lãnh đạo các nước ASEAN đã ký Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II (hay
còn gọi là Tuyên bố Bali II) vào tháng 10/2003, toàn khối đã nhất trí đề ra mục
tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2020 với ba trụ cột chính: Cộng đồng
An ninh (ASC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ASCC); đồng
thời khẳng định ASEAN sẽ tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với các đối tác
bên ngoài, vì mục tiêu chung là hòa bình, ổn định và hợp tác cùng có lợi ở khu
vực.
Để
triển khai và kế tục Chương trình Hành động Hà Nội (HPA), ASEAN đã đề ra Chương
trình Hành động Vientiane (VAP) cho giai đoạn 2004-2010 và các Kế hoạch hành
động để xây dựng ba trụ cột Cộng đồng về
chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội, trong đó có hợp phần quan trọng
là thực hiện Sáng kiến Liên kết ASEAN (IAI) nhằm giúp thu hẹp khoảng cách phát
triển trong ASEAN với kế hoạch hành động và các dự án.
Để
kịp thích ứng với những chuyển biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình quốc
tế và khu vực cũng như trên cơ sở những thành tựu của ASEAN trong 40 năm qua
nhất là kết quả thực hiện Chương trình Hành động Vientiane (VAP), Lãnh đạo các
nước ASEAN tháng 01/2007 đã quyết tâm đẩy nhanh tiến trình liên kết nội khối
dựa trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN, nhất trí mục tiêu hình thành Cộng
đồng ASEAN vào năm 2015 thay vì vào năm 2020 như thỏa thuận trước đây.
ASEAN
khẩn trương xúc tiến xây dựng các Kế hoạch tổng thể để xây dựng Cộng đồng Chính
trị-An ninh (APSC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ASCC),
đề ra mục tiêu và thời hạn hoàn thành đối với từng biện pháp, hoạt động cụ thể.
Tại
Hội nghị Cấp cao ASEAN 13 (11/2007), Lãnh đạo các nước đã ký Hiến chương ASEAN
nhằm tạo cơ sở pháp lý và khuôn khổ thể chế cho gia tăng liên kết khu vực,
trước mắt là hỗ trợ mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Hiến
chương ASEAN đã chính thức có hiệu lực ngày 15/12/2008.
Hội
nghị Cấp cao ASEAN-14 (tháng 2/2009) đã thông qua lộ trình xây dựng Cộng đồng
ASEAN kèm theo 3 Kế hoạch tổng thể xây dựng 3 trụ cột Cộng đồng ASEAN và Kế
hoạch công tác về IAI giai đoạn 2 (2008-2015). Đây là một văn kiện quan trọng
như một chương trình hành động tổng thể đề ra khuôn khổ và các bước triển khai
cụ thể, để ASEAN tiếp tục đẩy mạnh nỗ lực thực hiện mục tiêu xây dựng Cộng đồng
ASEAN vào năm 2015, kế tục Chương trình Hành động Vientiane (VAP).
2.1.2 Mục tiêu của Cộng đồng ASEAN
năm 2015
Mục tiêu tổng quát của Cộng đồng ASEAN là xây dựng Hiệp hội
thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ liên kết sâu rộng hơn và ràng buộc hơn
trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN; nhưng không phải là một tổ chức siêu
quốc gia và không khép kín mà vẫn mở rộng hợp tác với bên ngoài.
Cộng
đồng ASEAN sẽ được hình thành dựa trên 3 trụ cột là Cộng đồng Chính trị - An
ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội. Quan hệ đối ngoại của
ASEAN cũng như mục tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN (nhất là:
IAI - Sáng kiến Liên kết ASEAN) được lồng ghép vào nội dung của từng trụ cột
Cộng đồng ASEAN.
2.1.3 Triển vọng của Cộng đồng ASEAN
năm 2015
Trên cơ sở phân tích các nhân tố tác động đến triển vọng của
ASEAN trong 10-15 năm tới, dự báo khả năng hiện thực nhất là ASEAN sẽ chuyển
hóa dần từ một Hiệp hội khá lỏng lẻo thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ
có mức độ ràng buộc pháp lý cao hơn và liên kết sâu rộng hơn, nhưng không trở
thành một tổ chức siêu quốc gia; sẽ trở thành một thực thể chính trị, kinh tế
gắn kết hơn, một cộng đồng “thống nhất trong đa dạng”; tiếp tục là tổ chức hợp
tác khu vực mở và có vai trò quan trọng ở Châu Á-Thái Bình Dương.
Liên
kết ASEAN sâu rộng hơn nhưng mức độ liên kết sẽ không đồng đều trong ba lĩnh
vực chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội, do sự đa dạng khá lớn giữa
các nước thành viên, nhất là về khoảng cách phát triển, chế độ chính trị, xã
hội cũng như những tính toán chiến lược và lợi ích quốc gia.
2.2 Thách thức, cơ hội và giải pháp
của giáo dục, đào tạo nhân lực du lỊch Việt Nam trước thềm ASEAN 2015
2.2.1
Những
thách thức
2.2.1.1 Đối mặt với khó khăn do sự không
đồng đều chất lượng
Dưới góc
độ du lịch của khối ASEAN, Việt Nam luôn phải vất vả cạnh tranh với các điểm
đến hàng đầu của các nước này trong việc thu hút du khách. Các điểm đến du lịch
ở Malaysia, Thái Lan, Singapore được đầu tư nhiều kinh phí, có tay nghề lao
động với trình độ chuyên môn cao, luôn đổi mới về sản phẩm và thương hiệu du
lịch. Thách thức số một là bối cảnh các nước ASEAN sẽ gia nhập cộng đồng chung ASEAN
vào năm 2015, Việt Nam sẽ đối mặt với nhiều khó khăn do sự không đồng đều về
chất lượng như nguồn nhân lực du lịch, chất lượng dịch vụ, năng lực kinh doanh
du lịch, “Nếu không chuẩn bị tốt, khai thác tốt thì doanh nghiệp Việt Nam không
chỉ mất thị trường khách du lịch trong khu vực mà thị trường khách nội địa cũng
khó giữ vững”.
2.2.1.2 Năng suất lao động thấp và
tay nghề kém [2]
Trong tình hình
hiện nay chất lượng lao động là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành bại trong cạnh tranh quốc tế nói chung và cạnh
tranh du lịch nói riêng. Trong những năm qua, Việt Nam gặp rất nhiều bất lợi
trong cạnh tranh du lịch, yếu tố then chốt của sự hạn chế này là Việt Nam có một
lực lượng lao động du lịch có chất lượng thấp, đây chính là thách thức thứ hai.
Vì vậy, việc nâng cao tay nghề lao động du lịch nước ta đang là một đòi hỏi cấp
thiết. Chất lượng lao động chỉ có thể được nâng cao thông qua qua chương trình
giáo dục đào tạo có chủ trương đúng đắn, trong đó đào tạo nghề du lịch là một cấu
thành quan trọng, yêu cầu này đòi hỏi công tác dạy nghề phải phát triển nhanh cả
về qui mô lẫn chất lượng.
2.2.1.3
Mất khách do hạn chế tầm nhìn quản lý
du lịch
Những hạn
chế tầm nhìn và yếu kém về công tác quản lý du lịch dẫn đến việc triển khai chưa
đồng bộ, chưa hiệu quả là thách thức thứ ba của ngành. Tình trạng mất vệ sinh,
an ninh, trật tự tại các điểm du lịch vẫn thường xuyên xảy ra. Tình trạng taxi
dù, hiện tượng chèo kéo, bán hàng rong, lừa đảo, ép khách du lịch vẫn có ở
nhiều địa phương nhất là mùa cao điểm. Tình trạng ô nhiễm, quá tải, hoặc thiếu
quản lý do khai thác quá mức tài nguyên du lịch hoặc bị sử dụng sai mục đích,
bị tàn phá dẫn đến tác động tiêu cực đến phát triển du lịch ở một số địa
phương. Môi trường du lịch ở nhiều nơi bị ô nhiềm hoặc bị hủy hoại nghiêm
trọng. Công tác quản lý môi trường tự nhiên và môi trường xã hội tại nhiều điểm
du lịch còn rất yếu kém và chưa được coi trọng. Hiện tượng xây dựng tràn lan
thủy điện tại nhiều địa phương, đặc biệt là ở khu du lịch Sapa, Lào Cai, Hà
Giang, Yên Bái, các tỉnh Tây Nguyên, miền Trung đã hủy hoại tài nguyên và môi
trường điểm đến tác động xấu đến phát triển du lịch.
Tính chuyên nghiệp khi xây dựng sản
phẩm du lịch, xúc tiến quảng bá cũng chưa nâng cao. Sản phẩm du lịch Việt Nam
vẫn chậm đổi mới, thiếu đặc sắc, ít sáng tạo và còn trùng lặp giữa các vùng
miền, giá trị gia tăng hàm chứa trong sản phẩm du lịch thấp, thiếu đồng bộ và
thiếu liên kết trong phát triển sản phẩm. Kinh phí nhà nước đầu tư còn hạn chế
cho nên chưa tạo được hiệu ứng kích cầu đi du lịch Việt Nam tại các thị trường
mục tiêu.
2.2.1.4 Thách thức của việc toàn
cầu hóa và yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế
Thách thức thứ tư là vấn đề cạnh tranh giữa các điểm đến
trong khu vực đang diễn ra ngày càng quyết liệt hơn, nhất là việc xây dựng hình
ảnh, thương hiệu quốc gia. Vấn đề nhân lực du lịch không còn lợi thế chỉ ở số lượng mà cần tăng
giá trị gia tăng của mỗi công đoạn sản xuất, tăng năng suất lao động. Điều
đó đúng vì năng lực cạnh tranh Việt Nam liên tục bị tụt hạng trong vài năm gần
đây, năng suất lao động nước ta còn rất thấp so với các nước trong khu vực và
thế giới. Điều đó đã làm cho nền kinh tế Việt Nam không tận dụng được lợi thế
cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế. [1]
2.2.1.5
Tự do di chuyển
lao động – thế cạnh tranh mới trong ASEAN 2015
Tự do di chuyển lao động trong khối ASEAN là thách thức thứ
năm.
Đối
với các chính phủ, tự do di chuyển lao động,
bảo đảm sự cam kết và thỏa thuận về thương mại quốc tế, khuyến khích
trao đổi điển hình tốt và chia sẻ thông tin giữa các đối tác. Điều này
có thể dẫn tới:
- Chi phí giảm;
- Sức cạnh tranh gia
tăng;
- Khả năng xâm nhập thị
trường cao; và dòng chảy thương mại tự do hơn.
Tất cả nhằm giải quyết sự mất cân bằng
cung và cầu về việc làm du lịch trong khu vực ASEAN và thiết lập cơ chế cho sự
tự do dịch chuyển lao động du lịch lành nghề, được chứng nhận trong toàn khu vực
ASEAN.
2.2.2 Những cơ hội
Bên cạnh những thách thức
thì cũng không ít cơ hội cho giáo dục và đào tạo du lịch của Việt Nam khi Cộng
đồng ASEAN hình thành.
2.2.2.1 Tiềm
năng, cơ hội việc làm nhiều hơn[4]
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO), ngành du lịch
thế giới cung cấp hơn 235 triệu việc làm (trực tiếp và gián tiếp) năm 2010
(chiếm 8% tổng số việc làm hay cứ 12,3 việc làm có một việc làm trong ngành du
lịch). Kinh tế toàn cầu của ngành du lịch dự kiến sẽ cung cấp 296 triệu việc
làm vào năm 2019.
Theo
Quy hoạch phát triển tổng thể du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030, xác định chỉ tiêu khách du lịch, tổng thu từ du lịch, tỷ trọng GDP và
nguồn nhân lực cho du lịch:
Đvt: lượt
Các chỉ tiêu
|
2010
|
2015
|
2020
|
2025
|
2030
|
Khách
quốc tế
|
5.049.855
|
7.500.000
|
10.500.000
|
14.000.000
|
18.000.000
|
Khách
nội địa
|
28.000.000
|
37.000.000
|
45.500.000
|
58.000.000
|
71.000.000
|
Tổng
thu từ du lịch (tỷ USD)
|
4,8
|
10,3
|
18,5
|
26,6
|
35,2
|
Tỷ
trọng tổng thu du lịch trong tổng GDP toàn quốc %
|
5,8
|
6,0
|
7,0
|
7,3
|
7,5
|
Lao
động trực tiếp trong ngành du lịch
|
478.065
|
620.000
|
870.000
|
1.050.000
|
1.400.000
|
Tổng
lao động du lịch và liên quan (trực tiếp và gián tiếp)
|
1.625.421
|
2.108.000
|
2.958.000
|
3.570.000
|
4.760.000
|
Bảng:
Dự báo chỉ tiêu phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2011 -2030 [5]
(Nguồn:
Viện NCPT Du lịch)
2.2.2.2 Bằng cấp được công nhận
trong Cộng đồng ASEAN 15?
Hiện nay trong lĩnh vực
văn hóa giáo dục thì ASEAN đã thành lập mạng lưới các trường đại học với 26 trường
tham gia. Việt Nam có Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TPHCM, Đại học
Cần Thơ tham gia mạng lưới này. Tương lai, hợp tác giáo dục đào tạo là lĩnh vực
sẽ còn nhiều trao đổi, cải thiện vì trình độ giáo dục đại học trong các nước
ASEAN còn khác nhau và việc công nhận tín chỉ giữa các trường đại học có thể được
xem xét công nhận lẫn nhau.
Trong
Cộng đồng ASEAN, việc thực hiện công nhận tay nghề cũng là một lĩnh vực được
đặt ra. Để có thể công nhận những chứng chỉ về hành nghề hay tay nghề trong
những lĩnh vực cụ thể như trong y tế, du lịch và một số hành nghề tạo điều kiện
cho công dân của các nước ASEAN tìm được việc làm, không chỉ ở nước mình mà ở
các nước khác trong khu vực ASEAN với mức lương hợp lý hơn, hấp dẫn hơn.
2.2.2.3 Hội nhập sâu rộng về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng
Nhiều chuyên gia cho
rằng, nếu như sinh viên thiếu và yếu các kỹ năng mềm, kỹ năng nghề nghiệp sẽ
khó khăn trong quá trình hội nhập ASEAN. TS. Lê Thị Thanh Mai, trưởng Ban Công
tác Sinh viên ĐHQG-HCM, phát biểu: “Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là xu thế
tất yếu. Xu thế này sẽ tạo ra thị trường lao động toàn cầu, công dân toàn cầu
và thanh niên toàn cầu. Để thanh niên tự tin hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa,
bên cạnh các hoạt động hỗ trợ từ nhà trường, từng cá nhân sinh viên phải không
ngừng tự học, rèn luyện, tự tu dưỡng, tự chịu trách nhiệm để trang bị cho mình
kỹ năng, kỷ luật, có tác phong của lao động chất lượng cao” [6].
2.2.3 Các giải pháp
2.2.3.1
Cần một định hướng giáo dục đào tạo nhân lực du lịch Việt Nam tầm vĩ mô
Như đã biết, Cộng đồng Kinh tế (AEC) một trong ba trụ cột
của Cộng đồng ASEAN, là mô hình liên kết kinh tế khu vực dựa trên và nâng cao những cơ
chế liên kết kinh tế hiện có của ASEAN có bổ sung thêm hai nội dung mới là tự
do di chuyển lao động và di chuyển
vốn tự do hơn.
Khi Cộng đồng ASEAN chính thức hình
thành năm 2015, thì ngành du lịch Việt Nam sẽ phải đối đầu như thế nào dưới góc
độ tự do di chuyển lao động trong đó có di chuyển lao động du lịch?
Hướng tới Cộng đồng ASEAN năm
2015, Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục
2011 – 2020” và “Chiến lược phát triển giáo dục dạy nghề 2011 – 2020” với mục
tiêu tổng quát đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn
diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc
tế; chất lượng giáo dục và dạy nghề được nâng cao một cách toàn diện. (chinhphu.vn)
2.2.3.2 Xây dựng tiêu chuẩn lao động
du lịch phù hợp và được công nhận lẫn nhau giữa các nước ASEAN [3]
Mười tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam được xây dựng bằng
tiếng Anh, dịch ra tiếng Việt và được đệ trình lên cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt theo thứ tự: Lễ tân, Buồng, Nhà hàng, Quản lý du lịch, Hướng dẫn viên du
lịch, Nấu ăn chuyên nghiệp, Quản lý khách sạn, Thuyết minh viên du lịch, Phục
vụ trên tàu du lịch, Vận hành doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mục
tiêu của Dự án EU (Dự án Chương trình phát triển Năng lực du lịch có Trách
nhiệm với Môi trường và Xã hội – do Liên minh Châu Âu tài
trợ) là nhằm củng cố năng lực thực hiện
Thỏa thuận Thừa nhận lẫn nhau về nghề du lịch trong ASEAN, được các bộ trưởng
ngành du lịch ký kết vào năm 2009. Thỏa thuận này hướng tới tăng cường chất
lượng và tiêu chuẩn hóa nguồn nhân lực, đồng thời tạo điều kiện cho việc dịch
chuyển lao động du lịch được đào tạo và được công nhận ở tất cả các cấp độ
trong khu vực.
Tiêu
chuẩn nghề du lịch Việt Nam mới được cập nhật và mở rộng cũng bao gồm các chủ
đề du lịch có trách nhiệm và được xây dựng phù hợp với các yêu cầu của thỏa
thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề du lịch trong ASEAN, cần thiết phải phổ biến
rộng rãi thông tin về việc đã có tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam mới đối với
ngành du lịch, các trường và cơ quan quản lý nhà nước ở các tỉnh và cộng đồng.
2.2.3.3
Đầu tư cơ sở đào tạo du lịch chất lượng
ngang tầm ASEAN và quốc tế
Theo Bộ LĐTB&XH, trường nghề đạt chuẩn chất lượng ngang
tầm ASEAN và quốc tế ngoài việc
đạt các tiêu chí kiểm định chất lượng còn phải có ít nhất 5 nghề trọng điểm để
đào tạo, trong đó tối thiểu 3 nghề cấp độ ASEAN và quốc tế. Quy mô đào tạo tối
thiểu 1.000 học sinh, sinh viên; tuyển sinh tối thiểu 50 học sinh, sinh viên
vào các nghề trọng điểm/năm. Ngoài ra, phải có hệ thống bảo đảm chất lượng do
tổ chức City & Guilds (Anh Quốc) công nhận; ít nhất 90% học sinh, sinh viên
có việc làm trong 3 tháng kể từ khi tốt nghiệp; mức lương khởi điểm bình quân
sau khi tốt nghiệp ít nhất bằng 2 lần lương tối thiểu mà doanh nghiệp phải trả
cho người lao động.
2.2.3.4 Chương trình cho giáo viên đào tạo nhân lực du lịch theo
chuẩn quốc tế
Từ năm 2011, Bộ LĐTB&XH đã triển khai đề án đào tạo nghề
cho giáo viên theo chuẩn quốc tế. Riêng đội ngũ giáo viên dạy nghề đủ tiêu
chuẩn cũng đã được gửi tới một số nước để học tập nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo nghề trong nước. Cụ thể trong năm 2014, Tổng cục Dạy nghề sẽ lựa chọn
khoảng 600 giáo viên được sang Úc đào tạo 4 tháng (3 tháng đào tạo nghề, 1
tháng học sư phạm). Đây là một trong những bước tiến đổi mới trong công tác dạy
nghề và dạy nghề du lịch trong thời gian tới.
2.2.3.5
Xem doanh nghiệp
du lịch là nòng cốt, là động lực phát triển của du lịch VN
Cần xem các doanh nghiệp du lịch là nòng cốt, động lực phát triển của ngành du lịch
Việt Nam ở cấp độ vĩ mô.
Ngoài ra, để có thể tận dụng cơ hội của hội nhập và vượt qua thách thức, Chính
phủ tạo điều kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp du lịch hơn nữa, đồng thời bản thân
các doanh nghiệp du lịch cũng phải nỗ lực chủ động triển khai các biện pháp
nhằm đối phó với khó khăn và tận dụng thời cơ mà hội nhập đem lại như: nâng cao
chất lượng dịch vụ và chất lượng sản phẩm du lịch; xây dựng uy tín, thương
hiệu; chú trọng nghiên cứu thị trường, khảo sát và đầu tư những sản phẩm du
lịch mới, có chất lượng; tham gia các sự kiện du lịch trong nước và quốc tế;
duy trì ổn định giá cả dịch vụ...[7]
3. KẾT LUẬN
Du lịch là ngành
kinh tế tổng hợp và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng với sự phát triển
kinh tế quốc gia nói riêng và kinh tế ASEAN nói chung. Ở góc độ thế giới, du
lịch chiếm vị trí hàng đầu trong thương mại toàn cầu, được coi là ngành xuất
khẩu và tạo việc làm lớn nhất thế giới. Theo Tổ chức Du lịch thế giới, trong
thế kỷ XXI, du lịch trở thành hoạt động kinh tế quan trọng nhất trên phạm vi toàn
cầu. Với vai trò ngày càng tăng của ngành Du lịch, ngày càng nhiều quốc gia coi
trọng phát triển du lịch, coi du lịch là động lực chính để phát triển kinh
tế-xã hội.
Toàn
khối ASEAN năm 2015 sẽ tiến tới một cộng đồng “thống nhất trong đa dạng”, tiếp tục là tổ chức hợp tác khu vực mở
và có vai trò quan trọng ở Châu Á-Thái Bình Dương. Do vậy, liên kết ASEAN sâu
rộng hơn trong ba lĩnh vực chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội là
những tính toán chiến lược quan trọng. Việc xem xét lợi ích của quốc gia nói
chung và lợi ích ngành du lịch nói riêng phải được đặt trong mối quan hệ tổng
thể, xuyên suốt, trong đó không thể xem nhẹ việc giáo dục đào tạo tay nghề
chuyên nghiệp của con người làm du lịch Việt Nam.
Bài
được đăng trong Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế “Toàn cầu hóa du lịch, địa phương hóa
du lịch”. Trường Cao đẳng Văn hóa, nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn ngày 6,713/2015
DANH
MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo Hải Quan (2014), Cộng
đồng kinh tế ASEAN: Cơ hội và thách thức cho DN.
Thứ Tư, 07/05/2014 21:42 GMT+7
[2]. Báo Nông Nghiệp Việt Nam (2014), Năm
2014 năm “khởi sắc” của đào tạo nghề, số ra ngày 24/02/2014
[3]. Dự án EU (do Liên minh Châu Âu tài
trợ), Đề xuất chiến lược marketing du lịch Việt Nam đến năm 2020 & Kế hoạch
hành động: 2013-2015.
[4].
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) (2010), Phát triển và thách thức trong ngành
khách sạn và du lịch, Bài trình bày tại Diễn đàn đối thoại toàn cầu về Ngành
khách sạn, ăn uống và du lịch, Giơ-ne-vơ 23-24/11/2010.
[5].
Tổng cục du lịch (2013), Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030, Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội. tr 104,129.
[6]. Hội thảo “Giải pháp phát triển nghề nghiệp
hướng đến ASEAN 2015”, tổ chức ngày 16/11/2013, Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh (ĐHQG-HCM).
[7]. Thu Thủy (2013), Doanh
nghiệp du lịch là nòng cốt, động lực phát triển của ngành du lịch, Báo
QĐND. Thứ tư, 04/12/2013 | 15:47 GMT+7
CÁC WEBSITE
[01]. www.tvet-vietnam.org
[02]. www.chinhphu.vn
[03]. www.vtcb.org.vn
[04]. www.huongnghiep24h.net
[05].www.baomoi.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét